Cải thiện chỉ số phát triển con người của Việt Nam - hướng tới thuộc nhóm nước có chỉ số cao ở Đông Nam Á

|

Cải thiện chỉ số phát triển con người của Việt Nam - hướng tới thuộc nhóm nước có chỉ số cao ở Đông Nam Á

Thời gian qua, Việt Nam được đánh giá là quốc gia có nhiều chuyển biến tích cực trong cải thiện chỉ số phát triển con người. Từ quốc gia có chỉ số phát triển con người ở mức thấp vào đầu những năm 1990, Việt Nam đã trở thành nước có chỉ số phát triển con người ở mức cao năm 2019. Mặc dù vậy, các kết quả về phát triển con người của Việt Nam hiện còn ở mức thấp hơn mức trung bình thế giới và của các nước Đông Nam Á… Với mục tiêu cải thiện chỉ số phát triển con người, hướng tới thuộc nhóm nước có chỉ số cao ở Đông Nam Á, thời gian tới Việt Nam cần có các giải pháp, chính sách phù hợp hơn nữa, trong đó đặc biệt coi “con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát triển” như tại Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2030” đã nêu.
 
Chỉ số phát triển con người – Một số thông tin cơ bản và sự cải thiện của Việt Nam giai đoạn 2016 đến nay

Các chuyên gia cho rằng, trong phát triển kinh tế - xã hội, các quốc gia trên thế giới ngày càng nhận rõ, con người không chỉ là nguồn lực, là quy mô, tiềm lực của nền kinh tế, mà còn là mục tiêu, kết quả và là trung tâm của sự phát triển bền vững. Với ý nghĩa quan trọng đó, trong hoạch định cũng như đánh giá kết quả thực hiện các chủ trương, chính sách, chiến lược, kế hoạch phát triển đất nước, phát triển con người luôn đư??c chính phủ các nước xác định là một trong những chỉ tiêu đặc biệt quan trọng.

Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) cho biết, phát triển con người là quá trình làm tăng khả năng lựa chọn của mỗi người cũng như mức độ đạt đư??c phúc lợi của họ. Trong đó, sự lựa chọn cốt yếu là trường thọ, khỏe mạnh, đư??c học hành và đư??c tận hưởng mức sống tử tế; đồng thời, đư??c bảo đảm về nhân quyền và bình đẳng về chính trị. Để đo lường sự phát triển con người, năm 1990 UNDP đã đề xuất và khởi xướng tính Chỉ số phát triển con người (HDI). Báo cáo phát triển con người (HDR) đầu tiên đã đư??c UNDP biên soạn năm 1990 và công bố năm 1991.

Tại các Báo cáo phát triển con người hằng năm của UNDP đưa ra khái niệm HDI là chỉ tiêu kinh tế - xã hội tổng hợp đo lường sự phát triển của con người trên 3 phương diện: Sức khỏe, giáo dục và thu nhập của quốc gia, vùng lãnh thổ hoặc địa bàn địa phương của quốc gia, vùng lãnh thổ trong kỳ quan sát.

Trong những năm 1990-2010, Báo cáo phát triển con người của UNDP giới thiệu chỉ số tổng hợp HDI đư??c tính theo phương pháp bình quân cộng giản đơn ba chỉ số thành phần, bao gồm: Chỉ số sức khỏe, Chỉ số giáo dục và Chỉ số thu nhập với công thức tính:

HDI = (Isức khỏe + Igiáo dục + Ithu nhập)/3

Trong đó: HDI: Chỉ số phát triển con người; Isức khỏe: Chỉ số sức khỏe, đư??c tính thông qua chỉ tiêu tuổi thọ trung bình tính từ lúc sinh, còn đư??c gọi là tuổi thọ bình quân hay triển vọng sống trung bình khi sinh; Igiáo dục: Chỉ số giáo dục, đư??c tính thông qua 2 chỉ tiêu: Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết và tỷ lệ nhập học các cấp; Ithu nhập: Chỉ số thu nhập, đư??c tính thông qua chỉ tiêu tổng sản phẩm trong nước bình quân đầu người theo sức mua tương đương.

Sau một thời gian áp dụng, phương pháp tính HDI từng bước đư??c hoàn thiện. Từ năm 2010 đến nay, chỉ số tổng hợp HDI vẫn tính từ 3 chỉ số thành phần, nhưng có một số thay đổi về chỉ tiêu đầu vào sử dụng trong tính toán các chỉ số thành phần và công thức tổng hợp HDI từ các Chỉ số thành phần với một số thay đổi, cụ thể: Chỉ số giáo dục đư??c tính thông qua 2 chỉ tiêu là số năm đi học bình quân của những người từ 25 tuổi trở lên và số năm đi học kỳ vọng của trẻ em trong độ tuổi đi học; Chỉ số thu nhập đư??c tính thông qua chỉ tiêu tổng thu nhập quốc gia (GNI) bình quân đầu người theo sức mua tương đương, thay thế chỉ tiêu tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân đầu người theo sức mua tương đương; Công thức tính chỉ số tổng hợp HDI chuyển từ bình quân cộng giản đơn 3 chỉ số thành phần sang bình quân nhân giản đơn:


 
HDI nhận giá trị trong khoảng từ 0 đến 1 (0 ≤ HDI ≤ 1). HDI đạt tối đa bằng 1, thể hiện trình độ phát triển con người ở mức lý tưởng; HDI tối thiểu bằng 0, thể hiện xã hội không có sự phát triển mang tính nhân văn.
Căn cứ giá trị HDI, UNDP đã đưa ra Bảng xếp hạng phát triển con người của các quốc gia, vùng lãnh thổ hoặc các vùng, miền, địa phương, bộ phận d&acirc;n cư tr&ecirc;n địa bàn của một quốc gia, vùng lãnh thổ theo 4 nhóm: Nhóm 1, đạt mức rất cao với HDI ≥ 0,800; Nhóm 2, đạt mức cao với 0,700 ≤ HDI < 0,800; Nhóm 3, đạt mức trung bình với 0,550 ≤ HDI < 0,700; Nhóm 4, đạt mức thấp với giá trị HDI < 0,550.

Với các phương pháp và cách tính tr&ecirc;n, chỉ s&ocirc;́ HDI có ý nghĩa:

(i) Là chỉ tiêu kinh tế-xã hội tổng hợp n&ecirc;n có khả năng phản ánh đầy đủ hơn động thái và thực trạng kinh tế-xã hội theo kh&ocirc;ng gian và thời gian.

(ii) Trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội, các quốc gia và vùng lãnh thổ ngày càng nhận rõ con người kh&ocirc;ng chỉ là nguồn lực, mà hơn thế còn là mục tiêu của sự phát triển. Với ý nghĩa quan trọng đó, trong hoạch định cũng như đánh giá kết quả thực hiện các chủ trương, chính sách, chiến lược, kế hoạch phát triển đất nước, HDI được xác định là một trong những chỉ tiêu chủ yếu.

(iii) HDI kh&ocirc;ng chỉ tính theo phạm vi quốc gia, vùng lãnh thổ mà còn tính cho các địa phương hoặc nhóm d&acirc;n cư, nhằm phản ánh trình độ phát triển con người của từng địa phương hoặc bộ phận d&acirc;n cư tr&ecirc;n địa bàn của một quốc gia, vùng lãnh thổ.

(iv) Mặc dù có nhiều ưu điểm, nhưng HDI vẫn chưa phản ánh được mọi khía cạnh kinh tế-xã hội, đặc biệt là mặt chất của sự phát triển. Chính vì vậy, sử dụng chỉ tiêu HDI thường đi cùng các chỉ tiêu kinh tế-xã hội khác.

Tại Việt Nam, tr&ecirc;n cơ sở phương pháp tính HDI đang đư??c các quốc gia, vùng lãnh thổ và các tổ chức quốc tế thống nhất áp dụng, Tổng cục Thống kê cũng đã bi&ecirc;n soạn, c&ocirc;ng bố HDI của cả nước trong Ni&ecirc;n giám Thống kê và một số sản phẩm th&ocirc;ng tin thống kê khác.

Tại Báo cáo “Chỉ số phát triển con người Việt Nam giai đoạn 2016-2020” được Tổng cục Thống kê thu thập th&ocirc;ng tin đầu vào và bi&ecirc;n soạn HDI chung cả nước và 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương những năm 2016-2020. Báo cáo đi sâu ph&acirc;n tích HDI đã tính toán, tổng hợp đư??c; góp phần phản ánh động thái và thực trạng kinh tế - xã hội của đất nước những năm vừa qua tr&ecirc;n 3 tiêu chí quan hệ trực tiếp đến mỗi người d&acirc;n; đó là, sức khỏe, giáo dục và thu nhập.

Theo đó, các ph&acirc;n tích tại Báo cáo cho biết, trong giai đoạn 2016-2020, kinh tế-xã hội của cả nước nói chung và sự phát triển con người nói ri&ecirc;ng đạt đư??c những thành tựu quan trọng. Chỉ số tổng hợp HDI của Việt Nam đã tăng từ 0,682 năm 2016 l&ecirc;n 0,687 năm 2017; 0,693 năm 2018; 0,703 năm 2019 và 0,706 năm 2020. So với năm trước, HDI năm 2017 tăng 0,005 với tốc độ tăng 0,73%; 2018 tăng 0,006 và tăng 0,87%; 2019 tăng 0,10 và tăng 1,44%; 2020 tăng 0,003 và tăng 0,43%. Tính chung những năm 2016-2020 tăng 0,024 với tốc độ tăng 3,52%; bình qu&acirc;n mỗi năm tăng 0,87%.

Theo tiêu chuẩn và sự ph&acirc;n chia HDI thành 4 nhóm của UNDP, HDI của Việt Nam đã từ nhóm trung bình những năm 2016-2018 l&ecirc;n nhóm cao trong năm 2019-2020. Thứ hạng HDI của Việt Nam tăng từ vị trí 118 năm 2016; 119 năm 2017 và 118 năm 2018 l&ecirc;n vị trí 117 năm 2019 trong tổng số 180 quốc gia, vùng lãnh thổ thế giới.
 
Các ph&acirc;n tích đánh giá cũng cho biết, mặc dù có sự gia tăng, song HDI của Việt Nam vẫn thấp hơn mức bình qu&acirc;n chung của các quốc gia Đ&ocirc;ng Nam Á. Năm 2016 thấp hơn 0,026; 2017 thấp hơn 0,023; 2018 thấp hơn 0,021 và đến năm 2019 vẫn còn thấp hơn 0,003. Trong những năm 2016-2019, HDI của Việt Nam chưa có sự cải thiện thứ hạng trong khu vực, lu&ocirc;n ở vị trí 7/11 quốc gia Đ&ocirc;ng Nam Á; chỉ xếp tr&ecirc;n Ti-mo Lét-xtê, Lào, Căm-pu-chia và Mi-an-ma; thấp thua Xin-ga-po, Bru-nây, Ma-lai-xi-a, Thái Lan, Phi-li-pin và In-đô-nê-xi-a.

Theo Báo cáo Phát triển con người (HDR) toàn cầu 2021/2022 đư??c Chương trình Phát triển Li&ecirc;n hợp quốc tại Việt Nam c&ocirc;ng bố tháng 9/2022 cho biết, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam năm 2021 là 0,703, tăng hai bậc trong bảng xếp hạng toàn cầu, từ 117/189 quốc gia vào năm 2019 l&ecirc;n 115/191 quốc gia trong năm 2021. HDI của Việt Nam năm 2021 xếp thứ 6 trong khu vực Đ&ocirc;ng Nam Á.

Xét trong khu vực Đ&ocirc;ng Nam Á, Xin-ga-po có giá trị HDI đạt 0,939 vào năm 2021, đứng thứ nhất trong khu vực Đ&ocirc;ng Nam Á và thứ 12 tr&ecirc;n thế giới. Xếp sau Xin-ga-poBru-nây với giá trị HDI đạt 0,829, đứng thứ hai trong khu vực Đ&ocirc;ng Nam Á và thứ 51 tr&ecirc;n thế giới.

 
Biểu đồ 1: Chỉ s&ocirc;́ phát triển con người (HDI) của Việt Nam và các nước
 trong khu vực Đ&ocirc;ng Nam Á năm 2021

 
Cùng với đó, Ma-lai-xi-a, Thái Lan, In-đô-nê-xi-a lọt top 5 quốc gia trong khu vực Đ&ocirc;ng Nam Á có giá trị HDI cao nhất trong khu vực. Cụ thể, Ma-lai-xi-a có giá trị HDI đạt 0,803; đứng thứ 3 trong khu vực Đ&ocirc;ng Nam Á và thứ 62 tr&ecirc;n thế giới. Thái Lan có giá trị HDI đạt 0,8; đứng thứ 4 trong khu vực Đ&ocirc;ng Nam Á và thứ 66 tr&ecirc;n thế giới. In-đô-nê-xi-a có giá trị HDI đạt 0,705; đứng thứ 5 trong khu vực Đ&ocirc;ng Nam Á và thứ 114 tr&ecirc;n thế giới. Các quốc gia còn lại Phi-li-pin, Lào, Ti-mo Lét-xtê (Đ&ocirc;ng Timor), Căm-pu-chia và Mi-an-ma có giá trị HDI lần lượt là 0,699; 0,607; 0,607; 0,593 và 0,585.
 
Cũng tại Báo cáo Chỉ s&ocirc;́ phát triển con người năm 2021/2022 của UNDP đã đưa ra nhận định, Việt Nam thuộc Nhóm Phát triển con người cao từ năm 2019 và đã đạt tiến bộ ổn định trong cả ba khía cạnh của HDI kể từ những năm 1990. Chỉ số Bất bình đẳng giới (GII) của Việt Nam (đo lường sự sụt giảm phát triển con người do bất bình đẳng giữa nam và nữ) tiếp tục đư??c cải thiện vào năm 2021. GII của Việt Nam là 0,296, xếp hạng 71 trong số 170 quốc gia. Tỷ lệ trẻ em gái đi học và phụ nữ tham gia lực lượng lao động tăng... Điều này cho thấy sự tiến bộ và ổn định của Chỉ số con người tại Việt Nam.

Cải thiện chỉ s&ocirc;́ phát triển con người Việt Nam - hướng tới nhóm có chỉ s&ocirc;́ cao ở Đ&ocirc;ng Nam Á

Có thể thấy, chỉ s&ocirc;́ phát triển con người Việt Nam thời gian qua đã có sự cải thiện đáng kể, tuy nhi&ecirc;n HDI của Việt Nam vẫn còn đứng ở thứ bậc thấp. Trong khu vực Đ&ocirc;ng Nam Á, Việt Nam đứng thứ 6 (còn khoảng cách khá xa so với Xin-ga-po, Bru-nây, Ma-lai-xi-a, Thái Lan, thấp hơn In-đô-nê-xi-a); đứng thứ 115/191 quốc gia và vùng lãnh thổ tr&ecirc;n thế giới có số liệu so sánh năm 2021 theo xếp hạng của UNDP.

B&ecirc;n cạnh đó, trong các chỉ số thành phần thì chỉ số sức khỏe - biểu hiện chủ yếu là tuổi thọ bình qu&acirc;n (đây là kết quả tổng hợp của thu nhập, văn hóa, thể thao, là kết quả trực tiếp của c&ocirc;ng tác y tế và chăm sóc sức khỏe; với giá trị cao nhất là 85 năm, giá trị thấp nhất là 20 năm) của Việt Nam đạt mức cao nhất trong 3 chỉ số thành phần. Theo đó, tại Báo cáo HDR của UNDP, tuổi thọ bình qu&acirc;n của Việt Nam đạt 73,7 năm, đứng thứ 5 ở khu vực Đ&ocirc;ng Nam Á, cao hơn mức bình qu&acirc;n 72 năm của khu vực này, đứng thứ 26 ở châu Á và cao hơn mức 73 năm của châu lục này; đứng thứ 87 tr&ecirc;n thế giới và cao hơn mức 73 của thế giới. Đây là một kết quả tích cực mà Việt Nam đã đạt đư??c. Tuy nhi&ecirc;n, trong lĩnh vực y tế, hiện nước ta vẫn còn nhiều hạn chế: Số giường bệnh bình qu&acirc;n 1 vạn d&acirc;n còn thấp, nhiều bệnh viện ở tuyến tr&ecirc;n còn tình trạng bệnh nh&acirc;n phải nằm ghép, nằm giường kê ở hành lang…, còn kh&ocirc;ng ít lao động làm việc ở khu vực kh&ocirc;ng chính thức, kh&ocirc;ng ít người già kh&ocirc;ng có tiền lương hưu, bảo hiểm y tế…

Về chỉ s&ocirc;́ thu nhập: Do điểm xuất phát thấp, n&ecirc;n GNI bình qu&acirc;n đầu người của Việt Nam còn thấp (năm 2021 ước đạt 10.709 USD), thấp thứ 7 ở Đ&ocirc;ng Nam Á, thứ 26 ở châu Á và thứ 81/116 nước và vùng lãnh thổ tr&ecirc;n thế giới có số liệu so sánh. Tốc độ tăng năng suất khá nhưng mức năng suất lao động còn thấp. “Cơ cấu d&acirc;n số vàng” có xu hướng qua nhanh, “cơ cấu d&acirc;n số già” đến nhanh, làm cho Việt Nam vẫn đứng trước nguy cơ “tụt hậu xa hơn” và nguy cơ “chưa giàu đã già”.

Cùng với đó, chỉ số giáo dục tuy có tăng song lĩnh vực giáo dục - đào tạo cũng còn nhiều hạn chế, thách thức. Đối với cấp mầm non, số học sinh bình qu&acirc;n một lớp học, bình qu&acirc;n một giáo vi&ecirc;n nhiều nơi còn cao. Đối với giáo dục phổ th&ocirc;ng, việc chuẩn hóa cấp học, giáo trình, mật độ học sinh, lớp học cấp tiểu học ở một số đô thị lớn, chế độ đối với giáo vi&ecirc;n còn tồn tại nhiều bất cập. Đối với cấp học đại học, cao đẳng, dạy nghề cần hoàn thiện hơn cơ cấu m&ocirc;n học, cơ cấu đào tạo ngành, nghề, lý thuyết và thực hành, đào tạo và sử dụng…

Trước những thực trạng tr&ecirc;n, để đạt được mục tiêu cải thiện chỉ s&ocirc;́ phát triển con người hướng tới nhóm có chỉ số cao trong khu vực Đ&ocirc;ng Nam Á, một số giải pháp đư??c đề xuất, bao gồm:

Do HDI là thước đo tổng hợp, đánh giá toàn diện kết quả phát triển kinh tế - xã hội của đất nước n&ecirc;n HDI cần đư??c xác định là một trong những chỉ tiêu chủ yếu trong chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước cũng như của từng địa phương. Đồng thời đòi hỏi có một hệ thống các giải pháp đồng bộ và triển khai thực hiện quyết liệt, hiệu quả; đặc biệt là các giải pháp về n&acirc;ng cao chất lượng đời sống cư d&acirc;n, tăng cường dịch vụ y tế, giáo dục bởi các lĩnh vực này li&ecirc;n quan trực tiếp đến phát triển con người.

Theo đó, trong lĩnh vực kinh tế, cần đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với tái cơ nền kinh tế. Tiếp tục n&acirc;ng cao chất lượng nguồn nh&acirc;n lực, đặc biệt là nh&acirc;n lực chất lượng cao gắn với phát triển mạnh mẽ khoa học và c&ocirc;ng nghệ. B&ecirc;n cạnh đó, kh&ocirc;ng ngừng n&acirc;ng cao năng lực, hiệu quả điều hành kinh tế vĩ mô và phương thức quản lý nhà nước; đẩy mạnh phát triển khu vực kinh tế tư nh&acirc;n, gắn tăng trưởng kinh tế với đảm bảo an ninh, quốc phòng. Có giải pháp vĩ mô ổn định giá trị đồng nội tệ, kiềm chế lạm phát. N&acirc;ng cao thu nhập thực tế của d&acirc;n cư cũng như sức mua tương đương trong so sánh quốc tế nói chung và quy đổi GNI bình qu&acirc;n đầu người tính Chỉ số thu nhập cấu thành HDI nói ri&ecirc;ng.

Ngoài ra, y&ecirc;́u tố năng suất lao động, thu nhập của người d&acirc;n, quy mô nền kinh tế, tổng sản phẩm quốc gia cũng rất khó để có thể tăng trưởng bền vững trong khi chất lượng giáo dục, đào tạo, chất lượng nguồn nh&acirc;n lực kh&ocirc;ng theo kịp với sự phát triển của kinh tế, do vậy, cần có những quyết sách mạnh mẽ cải cách hệ thống giáo dục, đào tạo. Có như vậy Việt Nam mới có thể thu hẹp khoảng cách phát triển con người với các nước trong khu vực cũng như tr&ecirc;n thế giới.

Cùng với đó, để cải thiện chỉ số phát triển con người, Việt Nam cần n&acirc;ng cao chất lượng y tế, trong đó tập trung n&acirc;ng cao năng lực y tế dự phòng, y tế cơ sở và y tế gia đình. Trong lĩnh vực giáo dục, cần nhanh chóng khắc phục tình trạng số năm đi học kỳ vọng đang ở mức thấp và tăng chậm hiện nay. Cần khắc phục những hạn chế của các chỉ số này, tập trung n&acirc;ng cao chất lượng giáo dục, tăng cường đầu tư vào cơ sở hạ tầng, giáo dục, đào tạo. Tăng tỉ lệ người lao động đang làm việc qua đào tạo, ứng dụng và phát triển khoa học - c&ocirc;ng nghệ, nhất là kinh tế số… Đẩy mạnh phát triển giáo dục và đào tạo cả về số lượng và chất lượng. Theo đó, phát triển giáo dục và đào tạo về mặt số lượng sẽ giúp n&acirc;ng số năm đi học bình qu&acirc;n của người d&acirc;n, có tác động trực tiếp đến việc cải thiện HDI. Khi chất lượng giáo dục đào tạo đư??c n&acirc;ng l&ecirc;n sẽ giúp đạt đư??c những mục tiêu xa hơn, bền vững hơn đối với sự tiến bộ cả về kinh tế, xã hội và môi trường. Nhờ đó, cải thiện trình độ phát triển con người một cách bền vững hơn, chất lượng hơn.

Tóm lại, với sự nỗ lực và quyết tâm thời gian qua đã mang lại những thành tựu đáng ghi nhận trong việc cải thiện chỉ số HDI tại Việt Nam. Mức sống, tuổi thọ và trình độ học vấn của người d&acirc;n đư??c cải thiện đáng kể, qua đó n&acirc;ng cao sự tiến bộ về mặt xã hội. Tuy vậy, để có được sự cải thiện tích cực hơn và vươn l&ecirc;n trong bảng xếp hạng của khu vực và thế giới theo xếp hạng của UNDP về phát triển con người, trong thời gian tới, Việt Nam cần giải quyết tốt hơn nữa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và c&ocirc;ng bằng xã hội; Xây dựng, hoàn thiện chính sách, thực hiện đồng bộ các giải pháp về kinh tế, xã hội và môi trường. Trong đó coi tăng trưởng kinh tế là điều kiện, cơ sở để thực hiện tiến bộ và c&ocirc;ng bằng xã hội; n&acirc;ng cao trình độ phát triển con người là mục tiêu và là động lực cho tăng trưởng kinh tế, để nước ta trở thành một quốc gia phát triển như mục tiêu mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã xác định./.
 
Tài liệu tham khảo
  1. Báo cáo phát triển con người (HDR) của UNDP các năm;
  2. Báo cáo Chỉ s&ocirc;́ phát triển con người Việt Nam năm 2016-2020, Tổng cục Thống kê, năm 2021;
  3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn Kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, năm 2021, Nhà xuất bản: Chính trị Quốc gia;
  4. Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội Việt Nam giai đoạn 2021-2030, năm 2021;
  5. http://www.gso.gov.vn; Ni&ecirc;n giám Thống kê 2016-2020,2021-Tổng cục Thống kê.
TS. Cao Thị Hà – Học viện Hành chính quốc gia

Trang web giải trí trực tuyến MT